Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ

Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271, 0975.865463 Email : thienmy.thich@gmail.com

Saturday, October 12, 2013

mua ban hat chum ngay

mua ban hat chum ngay http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 mua bán hạt chùm ngây cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg

Sunday, April 3, 2011

khi phơi nắng vào sáng sớm hay chiều muộn.

Nấm có thể sản sinh ra hàm lượng Vitamin D cao

05/10/2009 - 13:23 ABC Science
Nguồn Mushrooms may yield vitamin D bonanza

Tiến sĩ Gerald Pang và các đồng nghiệp Úc phát hiện rằng đặt đèn ở khoảng cách phù hợp và chiếu sáng cho nấm trong khoảng thời gian phù hợp sẽ không ảnh hưởng đến việc biến đổi màu nấm nhưng lại có tác dụng tăng khả năng tích tụ hàm lượng vitamin D.

* Bình chọnBình chọn (0)
* Ý kiếnÝ kiến (0)
* ShareChia sẻ
* PrintBản in

Nấm có thể sản sinh ra hàm lượng Vitamin D cao

Nấm chứa hàm lượng ergosterol cao vốn là tiền thân của vitamin D. (iStockphoto)

Theo các nhà nghiên cứu Úc, một chùm tia cực tím có thể biến nấm thành nguồn cung cấp vitamin D lớn.

Tiến sĩ Gerald Pang và các đồng nghiệp ở Đại học Miền Tây Sydney (University of Western Sydney) công bố những phát hiện của họ trong tập san Hóa học Nông nghiệp và Thực phẩm (Journal of Agricultural and Food Chemistry)

Nấm trong tự nhiên chứa hàm lượng ergosterol cao vốn là tiền thân của vitamin D.

Tuy nhiên, phương pháp tiêu chuẩn sản xuất nấm trong nhà khiến nấm không được tiếp xúc với ánh sáng và ergosterol không chuyển hóa thành vitamin D.

Các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ đã phát triển một công nghệ sử dụng tia cực tím để tăng hàm lượng vitamin D trong nấm. Tiến sĩ Pang cho biết công nghệ này đã được đưa vào sử dụng ở Mỹ từ năm ngoái.

Hiện nay, Pang và các đồng nghiệp đã thực hiện một nghiên cứu được tài trợ bởi Hiệp hội những người trồng nấm (Australian Mushroom Growers' Association) và Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên nghề làm vườn Úc (Horticulture Australia Ltd). Nghiên cứu này khẳng định rằng nấm Úc cũng có phản ứng lại với tia cực tím.

Tiến sĩ Pang cho biết, theo kết quả nghiên cứu, vitamin D ổn định và có thể tồn tại 8 ngày sau khi được xử lý và lưu giữ ở nhiệt độ trong phòng hoặc tủ lạnh theo yêu cầu.

Pang và các đồng sự đã thử nghiệm bằng cách chiếu sáng loại nấm mỡ Agaricus bisporus bằng tia cực tím C (UV-C light) của đèn xenon trong khoảng thời gian từ 20 giây đến 30 phút.

Họ phát hiện rằng đặt đèn ở khoảng cách phù hợp và chiếu sáng cho nấm trong khoảng thời gian phù hợp sẽ không ảnh hưởng đến việc biến đổi màu nấm nhưng lại có tác dụng tăng khả năng tích tụ hàm lượng vitamin D.

Các nhà nghiên cứu cũng sẽ sớm nghiên cứu ảnh hưởng của tia cực tím cường độ cao hơn để giảm thời gian chiếu sáng cần thiết cho việc tăng hàm lượng vitamin D.

Greg Seymour, Chủ tịch Tổ chức Quốc tế về Khoa học Trồng Nấm (The International Society for Mushroom Science) và Tổng Giám đốc Hiệp hội Những người Trồng Nấm Úc, tuyên bố những bằng chứng cho thấy 100 gram nấm được chiếu tia cực tím có thể cung cấp đủ hàm lượng vitamin D cần thiết hàng ngày cho con người.

Greg Seymour hi vọng rằng loại nấm giàu vitamin D sẽ có mặt ở Úc vào cuối năm nay.
Ý kiến các nhà dinh dưỡng học

Các nhà dinh dưỡng học đã có những phản hồi khác nhau về ý tưởng này.

“Tôi cho rằng đây là một ý tưởng thông minh bởi có rất ít loại thực phẩm thực sự chứa vitamin D”, Catherine Saxelby, nhà tư vấn dinh dưỡng tại Sydney, nhận xét.

Catherine Saxelby cho rằng mặc dù Úc là đất nước nhiều ánh nắng mặt trời nhưng hội chứng thiếu vitamin D vẫn là một vấn đề lớn, đặc biệt là với những người già nằm liệt giường,những phụ nữ và trẻ em da màu mặc quần áo che kín.

“Sẽ tốt hơn nếu có các loại thực phẩm khác giàu vitamin D ngoài dầu cá, bơ động vật và thực vật”, Saxelby nói.

Tiến sĩ Rosemary Stanton, nhà dinh dưỡng học, lại kêu gọi mọi người cẩn thận với ảnh hưởng của tia cực tím với nấm.

Bà cho biết nấm giàu các vitamin nhóm B nhưng vitamin nhóm B rất nhạy cảm với nhiệt và ánh sáng.

“Chúng ta cần phải cẩn thận và đảm bảo rằng phương pháp dùng tia cực tím không làm mất các vitamin nhóm B có trong nấm”, Stanton khuyến cáo.

Stanton cũng cho rằng con người vẫn có thể hấp thụ hàm lượng vitamin cần thiết mà không cần thiết tăng nguy cơ gây ung thư cho mình khi phơi nắng vào sáng sớm hay chiều muộn.
http://www.bayvut.com.au/tri-th%E1%BB%A9c/n%E1%BA%A5m-c%C3%B3-th%E1%BB%83-s%E1%BA%A3n-sinh-ra-h%C3%A0m-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-vitamin-d-cao

Không ăn thịt có làm mất cân bằng dinh dưỡng hay không?

Không ăn thịt có làm mất cân bằng dinh dưỡng hay không?

27/08/2009 - 14:24 Karl S. Kruszelnicki
Nguồn Off meat arguments off balance

Trên thực tế, có rất nhiều bằng chứng cho thấy con người đã tiến hóa để ăn thịt.

* Bình chọnBình chọn (0)
* Ý kiếnÝ kiến (0)
* ShareChia sẻ
* PrintBản in

Không ăn thịt có làm mất cân bằng dinh dưỡng hay không?

Không ăn thịt có làm mất cân bằng dinh dưỡng hay không?
Tóm lược

* Tiến sĩ Karl S. Kruszelnicki cho rằng chế độ ăn chay nếu được sắp xếp hợp lý thực sự có thể mang lại lợi ích cho sức khỏe nhưng ông cũng không đồng tình với ý kiến cho rằng không nên ăn thịt và thịt sẽ làm hại cho ruột và thải ra nhiều chất độc .

Tiến sĩ Karl S. Kruszelnicki cho biết ông không “gặp vấn đề gì” trong chuyện ăn chay. Trên thực tế, bản thân ông đã ăn chay trong nhiều năm. Thậm chí hiện giờ, do một trong những cô con gái của ông đang ăn chay nên Tiến sĩ Karl cũng có thể ăn chay nhiều ngày hoặc nhiều tuần liền mà không cần ăn thịt.

Tiến sĩ Karl hoàn toàn nhất trí rằng nếu cần nuôi dân số của một nước thì chế độ ăn của người ăn chay sử dụng ít nguồn thực phẩm và nhiên liệu hơn so với chế độ ăn của người ăn thịt.

Hơn nữa, Tiến sĩ Karl cũng hoàn toàn đồng ý rằng chế độ ăn chay nếu được sắp xếp hợp lý thực sự có thể mang lại lợi ích cho sức khỏe như giảm tỉ lệ béo phì, tỉ lệ mắc bệnh tim mạch và nguy cơ ung thư. Tuy nhiên, ông không đồng tình với ý kiến cho rằng con người đừng bao giờ ăn thịt cũng như những ý kiến cho rằng thịt sẽ làm hại cho ruột và thải ra nhiều chất độc dẫn đến việc mắc nhiều loại bệnh tật như bệnh tâm thần, lão hóa sớm và ốm yếu.

Có một số dị bản khác của giai thoại về việc ăn thịt có hại. Có người cho rằng trung bình mỗi người Mỹ chứa vài kilogram thịt chưa tiêu hóa trong ruột bởi vì họ tin rằng cơ thể con người không phải được cấu tạo để thích nghi với việc ăn thịt.

Trên thực tế, con người đã tiến hóa để ăn thịt. Dưới đây là một số bằng chứng:

Một mặt, răng trong hộp sọ con người gồm hai loại: loại răng cửa để cắn (như ở các loài động vật ăn thịt) và răng hàm để nhai (như ở động vật ăn cỏ). Sự kết hợp này làm cho con người trở thành động vật ăn tạp linh hoạt.

Mặt khác, thời gian tiêu hóa cho mỗi loại thức ăn khiến nhiều người cho rằng con người không tiêu hóa được thịt. Tuy nhiên ruột người chứa đủ các loại enzyme cần thiết để tiêu hóa thịt. Ruột người dài khoảng 10 mét. Thức ăn vào khoang miệng được nhai kỹ và được cung cấp một vài loại enzyme tiêu hóa có trong nước bọt. Sau đó, thức ăn đi qua thực quản và xuống dạ dày. Trong dạ dày, enzyme pepxin trong dịch vị tấn công protein trong thịt, phá vỡ các chuỗi amino axit thành các chuỗi nhỏ hơn.

Thông thường, thức ăn nằm trong dạ dày từ khoảng 30 phút đến 150 phút, trước khi chuyển tiếp đến vùng ruột non. Tuy nhiên, pepxin trong dịch vị dạ dày chỉ tiêu hóa khoảng 15% số lượng protein. Ruột non thực hiện hầu hết công đoạn tiêu hóa và hấp thụ những chất dinh dưỡng từ thức ăn. Thời gian tiêu hóa thức ăn trong ruột non là khoảng từ 2 đến 6 giờ.

Trong ruột non, tuyến tụy tiết ra nhiều loại enzymes có tác dụng phá vỡ các chuỗi amino axit nhỏ thành những chuỗi amino axit nhỏ hơn nữa.
Các tế bào thành ruột có những “ngón tay siêu nhò” gọi là lông nhung ruột. Thành lông ruột chứa các enzyme bám chặt bên trong thành ruột.
Những loại enzyme này được tiết ra từ thân lông ruột, thẩm thấu qua thành lông ruột vào ống ruột rỗng.

Khi ăn thức ăn, những enzyme này phá vỡ chuỗi amino axit thành những chuỗi cực nhỏ chứa hai hoặc ba amino axit, đôi khi cả amino axit đơn.
Những chuỗi amino axit cực nhỏ này được thấm vào tế bào thành ruột và bị phá vỡ thành các amino axit đơn (nếu cần thiết). Sau đó, các amino axit đơn được chuyển hóa ngay qua tế bào sang phía bên kia và chuyển vào mạch máu và chuyển tiếp các amino axit đơn lên gan để tiếp tục quá trình tiêu hóa.

Như vậy, rõ ràng ruột người trên thực tế chứa đầy đủ các cơ chế cần thiết để tiêu hóa protein trong thịt.

Các thành phần trong ruột non sau đó được chuyển tiếp tới ruột già nơi nước và các chất điện phân được tách bỏ. Thời gian của giai đoạn chuyển hóa ở ruột già kéo dài lâu hơn nhiều, từ khoảng 14 đến 80 giờ.

Thời gian chuyển hóa khác nhau do ảnh hưởng của nhiều nhân tố bao gồm yếu tố di truyền, lượng chất sơ trong chế độ ăn, số lượng thức ăn, tuổi tác, giới tính, thói quen hút thuốc, tập thể dục…

Tuy nhiên, ở mỗi phần của ruột, các thành phần mềm xốp có xu hướng dịch chuyển theo từng đơn vị, giống như kem đánh răng khi được bóp ra từ tuýp thuốc đánh răng. Chúng được pha trộn kỹ càng trước khi được thải ra ngoài cơ thể. Hỗn hợp trên vốn là thịt ban đầu không được tách riêng và giữ riêng để phân hủy âm thầm.

‘Cuộc hành trình’ của thịt trong hệ tiêu hóa là như thế, nếu bạn thấy quá phức tạp thì đừng ăn thịt nữa!
http://www.bayvut.com.au/tri-th%E1%BB%A9c/kh%C3%B4ng-%C4%83n-th%E1%BB%8Bt-c%C3%B3-l%C3%A0m-m%E1%BA%A5t-c%C3%A2n-b%E1%BA%B1ng-dinh-d%C6%B0%E1%BB%A1ng-hay-kh%C3%B4ng

Saturday, February 26, 2011

nguoivietkhapnoitrenthegioi2: Những tỷ phú Việt trên đất Mỹ

nguoivietkhapnoitrenthegioi2: Những tỷ phú Việt trên đất Mỹ: "Những tỷ phú Việt trên đất Mỹ Cập nhật lúc :6:57 AM, 23/01/2011 Người Việt có đức tình cần cù, nhẫn nại và nghị lực nên dù sống trong hoàn c..."

MỘT NGHỀ KINH DOANH ĐANG LÊN: TIỆM ĂN VÀ TẠP HÓA VIỆT Ở NHẬT

MỘT NGHỀ KINH DOANH ĐANG LÊN: TIỆM ĂN VÀ TẠP HÓA VIỆT Ở NHẬT
Thursday, November 01, 2007





Nếu muốn tự túc kinh doanh, có lẽ không gì hơn là khai thác sở trường sẵn có và đang được người Nhật ưa thích, đó là nấu món ăn Việt Nam.

Lâu nay có hàng ngàn công ty Nhật qua VN lập cơ sở sản xuất, thầu xây cất hạ tầng... Tất nhiên người Nhật còn làm rất nhiều thương mại khác như mở khách sạn, sân gôn và ngay cả tiệm tạp hóa như Iroiro trong thương xá SAVICO, Raku (Ẩy, Lạc) chuyên về y phục, ví, giày dùng vải Kimono trong thương xá TaxTrade Center, tiệm thời trang hàng đầu như tiệm Zen ở Sài Gòn, rồi tiệm tắm bồn phun (spar), đấm bót.... chủ đích hướng tới du khách Nhật.

Giữa năm 2001, ở Sài Gòn thấy có tiệm Hỷ Lâm Môn ở quận 3 bán cả 'bánh mì sushi' (bánh mì mềm kẹp cá sống). Mười tiệm ăn Việt Nam ở Sài Gòn được người Nhật ưa thích nhất theo thứ tự là Mandarine, Song Ngư, Nam An, Phở 2000, Tân Nam, Lemongrass, Luna, Vy, Ngọc Sương, Phở Hòa.

Cho tới năm 2005, ở Việt Nam có khoảng 100 tiệm Nhật pha lẫn Việt tại Hà Nội, Sài Gòn... với các tên như Club Koto (Cầm), Daruma, Doremon Kaka, Fuji and Haru (Phú Sĩ - Xuân), Genkotsutei (... Đình), Hachiya (Bát Thỉ), Hanayuki (Hoa...), Kissaten (Khiết Trà Điếm), Red Dragon Fly, Sail and Sake, Sai-To không phải tên Saito mà là từ Sài Gòn đến Tokyo), Sakanaya (Ngư Ốc), The Sushi Bar, Umiaji (Hải Vị), Zipang (cơm hộp)... cho tới loại quán thiện chí vừa ăn vừa học như Japan-Vietnamese Student Restaurant ở Sài Gòn. Công ty tiệm ăn hạng sang Chagall ở Tokyo thì mở một loạt tiệm ở Hà Nội và Sài gòn.

Trong khi đó, tới năm 2003, số quán có món ăn Việt Nam khắp nơi trên toàn nước Nhật cũng khoảng 300 tiệm (riêng Đông Kinh khoảng 100 tiệm). Nhiều người Nhật, nhất là phụ nữ, thích món ăn Việt Nam nên đã theo học các lớp nấu ăn. Ở Nhật đã có khoảng 15 cuốn sách về nấu ăn Việt Nam bằng tiếng Nhật, hầu như cuốn nào cũng có chỉ dẫn cách làm gỏi cuốn, phở, bánh xèọ Nhưng ở Việt Nam dường như mới chỉ có một cuốn sách nhỏ giới thiệu 'Món Ăn Đặc Sản Nhật-Hàn', trong có khoảng 20 món ăn Nhật.

Các tiệm ăn Nhật ở Việt Nam nhắm đến khách Nhật, vì đánh tâm lý người Nhật thích món ăn truyền thống, người Việt ít đến ăn vì có cá sống và giá thường rất đắt. Tiệm ăn Việt Nam ở Nhật cũng nhắm đến khách Nhật là chính, vì số người Việt quá ít. Có điều lạ là trong số đó, có khoảng trên 80% là do người Nhật làm chủ, nhất là các tiệm lớn và ở khu sang tro.ng. Tỷ lệ người Nhật mở quán Việt ở đây như vậy là rất cao so với các quốc gia khác, điều này cho thấy là người Nhật thích đồ ăn Việt Nam và việc mở tiệm đối với người Việt còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, ở Hoa Kỳ và Gia Nã Đại có một số người Việt mở tiệm 'bò Kobe' hay 'sushi'.

Ở Việt Nam nay có nhiều trường dạy nấu ăn cho du khách, nhất là du khách Nhật, như: La Fenetre Soliel, Over Land Club (dạy tới 400 món), Bảo, Song Ngư... Các nơi này đều có thông dịch, xe đưa đón, nhận dạy từ 2 người trở lên và trung bình dạy từ 2 đến 3 giờ đồng hồ với giá khoảng 35 đến 50 Mỹ Kim/1 người.

Có một số tiệm ăn đã cố gắng tạo bầu không khí rất Việt Nam bằng cách đặc biệt nhập cảng từ trang trí đến các dụng cụ ăn đều từ Việt Nam.

Kể về các tiệm ăn, kéo dài từ Hokkaido (Bắc Hải Đạo) ở cực bắc có tiệm sặc mùi nước mắm vì mang tên 'Phú Quốc' (là tên một hòn đảo ở cực nam Việt Nam) do người Nhật mới mở, xuống tới Kyushu (Cửu Châu) ở cực nam có tiệm 'Honba Betonamu Ryori' (Betonamu tiếng Nhật là Việt Nam) khá kỳ cựu của anh Đặng Đức Thịnh...

Lúc đầu chỉ cần tay nghề tàm tạm cũng được, bởi đa số khách là người Nhật, họ không khó tính như người Việt. Nhưng nay số tiệm và khách gia tăng, sự cạnh tranh cũng lên cao nên nhiều tiệm đã có nỗ lực cải thiện phẩm chất và cách phục vụ.

Muốn mở tiệm phải trả lời được câu hỏi đầu tiên: 'Tiền đâủ'. Chi phí mở quán 20 đến 100 ghế khoảng 3 đến 40 triệu Yen (30.000 đến 240.000 MK), gồm hai khoản chính là tiền thuê hay sang cửa tiệm cũ (10 đến 20 lần tiền thuê hàng tháng), chiếm độ 1/2 và tiền trang thiết bị độ 1/2. Đòi hỏi số vốn cao cũng là trở ngại chính, nếu không thì số tiệm ăn Việt mọc ra có lẽ còn gấp bội bây giờ.

MÓN ĂN ĐƯỢC ƯA THÍCH

Các món được ưa thích nhất ở Nhật là gỏi cuốn, chả giò, chả giò rế, bánh xèo, phở bò, phở gà, carry, gỏi gà, miến xào, bánh cuốn, bánh ít trần, chè xôi nước, các loại trà và cà phê Việt Nam (năm 1999, được xếp hạng 4 trong số những cà phê thế giới được ưa thích tại Nhật), bia 333, bia Sài Gòn, rượu đế Lúa Mới, rượu đế Nàng Hương, rượu vang Gia Lâm... nước mắm, bánh tráng cuốn, bánh phở khô, vị phở cô đặc... nay trở thành các vật liệu khá quen thuộc với các phụ nữ Nhật mê món ăn Việt Nam. Dịp Tết, nhiều người Nhật quen biết với người Việt cũng được thưởng thức bánh chưng, bánh tét, các loại mứt, hạt dưa...Thường để được thưởng thức nhiều món hoặc vì chưa quen nên không dám ăn nhiều, người Nhật hay gọi các món gỏi cuốn, bánh xèo, phở, bún bò huế... rồi ăn chung với nhau.

Ở Nhật, món phở bò chưa đạt được 'đỉnh cao nghệ thuật' như ở Hoa Kỳ, nên chưa được người Nhật chú ý như chả giò, gỏi cuốn, bánh xèo. Ở Hoa Kỳ, đối với người bản xứ thì đại biểu món ăn Việt Nam là phở bò, có một số cơ sở làm ăn khá, hệ thống đến 60 tiệm phở Hòa hay 20 tiệm phở Bằng trên nhiều tiểu bang. Du khách Nhật tới Nữu Ước rất thích vào ăn tiệm phở Bằng. Ở nhiều tiệm phở, thấy có khách Hoa Kỳ, Mỹ trắng ngồi húp phở xùm xụp, tự nhiên cũng thấy hãnh diện lâỵ. Món phở dễ chiếm ưu thế vì có thể ăn no phở bất cứ bữa nào trong ngày, giá cũng rất phải chăng, chỉ 4 đến 5 Mỹ Kim một tô. Còn chả giò hay gỏi cuốn chỉ là món ăn chơi.

Nhân dịp tham dự hội nghị tại Hà Nội cuối tháng 7/2001, bà Ngoại Trưởng Nhật là Makiko Tanaka (Điền Trung Chân Kỷ Tử) đã mặc áo dài Việt Nam, ăn chả giò. Chả giò tiếng Nhật là 'Harumaki', chữ Hán là 'xuân quyển', nên bà nói bà còn ăn cả 'hạ quyển', 'thu quyển'... còn bà thì là 'Makiko' (cũng có chữ 'maki). Làm cho nhân viên đài TV Asahi số 10 ở Nhật tưởng thật, đã điện thoại hỏi chúng tôi là các món chả giò theo mùa đó khác nhau như thế nào!

TÊN 'SÀI GÒN' ĐƯỢC CHỌN NHIỀU NHẤT

Đứng đầu trong lãnh vực kinh doanh tiệm ăn phải kể đến bác Nguyễn Văn Ngân, du học sinh qua Nhật từ năm 1941, nay đang làm chủ ba tiệm ăn lớn, một ở Yurakucho ('Sàigòn Café' mở từ năm 1952) và hai ở Ginza (Ngân Tọa), đều lấy tên là Sài Gòn, có tiệm tới 120 chỗ ngồi, sau này lại mở thêm tiệm bán đồ ăn làm sẵn trong khu chợ của đề-pa-tô Tokyu Toyoko ở Shibuya (Sáp Dịch).

Tên 'Sài Gòn' được nhiều tiệm chọn nhất. Chúng tôi thấy có khoảng 20 tiệm mang cùng tên 'Sài Gòn', có tới ba tiệm 'Miss Sài Gòn' ở thành phố Musashino (Vũ Tàng Dã); rồi ở Shibuya (Sáp Cốc) và Fukui, có ba tiệm lấy tên Hà Nộị. Có tiệm lại còn lấy tên 'Sài Gòn Đẹp Lắm' từ một bài hát mà có lẽ người Việt Nam nào cũng biết.

Bảo đảm hương vị Việt Nam, có tiệm lấy tên 'Hương Việt' của chị Nguyễn Thị Điệp mở từ năm 1986. Chị Điệp trong năm 1996, 97... và 2003 cũng đã góp phần trong ba, bốn cuốn sách về món ăn Việt Nam bằng tiếng Nhật. Năm 2003, chị Điệp cùng anh Nguyễn Vĩnh Trường mở thêm tiệm Hương Việt thứ hai ở Shinjuku; đặc biệt tiệm này là tiệm đầu tiên có làm bánh tráng rế (lưới) tại chỗ. Thơ mộng thì có tiệm 'Đà Lạt' ở Jiyugaoka (Tự Do Khâu) quận Meguro (Mục Hắc). Rất là phim ảnh thời sự thì có 'Ao Papaya' tức 'Đu Đủ Xanh' ở quận Kita (Bắc). Lời chào niềm nở và thân thiện thì chắc không đâu qua mặt được tiệm mang tên 'Hello Việt Nam' ở quận Chiyoda (Thiên Đại Điền). Đơn sơ mà hấp dẫn thì có tiệm mang tên 'Áo Dài' ở Akasaka (Xích Phản), quận Minato (Cảng).

Ở Kobe có tiệm Mekong khang trang rộng rãi với 60 ghế của anh Tòng sánh vai với một tiệm chắc có hương vị rất Hà Nội vì mang tên 'Lâm Hà Nội' mà. Nếu tỉnh Shizuoka (Tĩnh Cương) có tiệm tên 'Sài Gòn' quen thuộc của anh Hùng thì cạnh đó, tỉnh Aichi (Ái Tri) không chịu kém, vừa ra một cửa tiệm với cái tên rất cổ kính và xanh rờn là 'An Nam Blue'. Cũng như 'Mỹ Lệ Restaurant' của chị Mỹ Lệ ở quận Ota mở cũng hơn 12 năm qua.. Một nơi 'khỉ ho cò gáy' như tỉnh Shimane (Đảo Căn) ở tây-nam Bản Đảo cũng có tiệm Việt Nam, thiên hạ chọn hết tên hay nên chị Hataoka không biết chọn tên nào khác hơn là tên mình 'Hataoka Restaurant'.

Năm 1997, Hokkaido (Bắc Hải Đạo) lại có thêm tiệm thứ hai, không chịu thua kém Sài Gòn nên mang tên 'Chợ Lớn' mới lạ chứ, chuyên bán cà phê, bánh mì & tạp hóa Việt Nam do người Nhật làm chủ. Sau có thêm một tiệm ăn và rượu mang cái tên Nam Dương có vẻ bí mật 'Tétés Café' (Tétés là giọt nước) nhưng bán món ăn Việt Nam và Thái, hơn 70 ghế, tại Nishi Azabu (Ma Bố), quận Minato do công ty Nhật làm chủ.

Hệ thống tiệm Mỹ Dung ở Đông Kinh, từ tiệm đầu tiên ở Shinjuku (Tân Túc), rồi hai tiệm ở Bunkyo (Văn Kinh), Ikebukuro (Trì Biểu) và tháng 4/1997 kết hợp với một khách sạn Thái Lan mở thêm tiệm nữa lấy tên là 'Thiên Phước' ở Yotsuya (Tứ Cốc). Ở Shibuya thì có tiệm 'Bougainvillaea' (Hoa Giấy) từ năm 1982, do anh Dương Tuấn Kiệt làm chủ và mới đây, cuối năm 1996, có thêm tiệm 'Miss Saigon' do chị Tám làm chủ. Dì Ba Theo nấu ăn nổi tiếng, thường làm giò chả cho các nơi và cô Loan kinh doanh tiệm 'Hồng Phước' ở Omiya (Đại Cung), tỉnh Saitama (Kỳ Ngọc) từ năm 1993.

Năm 1997, chị Nguyễn Thị Giang đã mở tiệm mang tên 'Giang's Betonamu Ryoriten', gần ga Futago Tamagawaen (Song Tử Ngọc Xuyên Viên) cuối đường tầu Oimachi, có khoảng 30 ghế. Chị Giang là người từng dạy gia chánh tại Việt Nam, làm đầu bếp chuyên nghiệp cho nhiều quán ăn ở Nhật. Chị cũng dạy nấu ăn Việt Nam khoảng bảy năm qua, có 200 học trò, hầu hết là phụ nữ Nhật, rất thích đồ ăn Việt Nam, có người theo học chị liên tục nhiều năm.

Ngay đối diện hội quán Kyurian (Shinagawaritsu Sogo Kumin kaikan) ở cửa đông ga Oimachi (Đại Tĩnh Đinh), quận Shinagawa (Phẩm Xuyên) có tiệm 'Sun Fish Kitchen' bán thức ăn Việt, Thái và Lào do người Nhật làm chủ.

Đầu năm 1998, tại thành phố Yao (Bát Vĩ), Osaka (Đại Phản) có tiệm Việt Nam mang tên 'Sài Gòn Quán' do chị Mai Hoa và Tuyết Minh trông coi. Lại có một quán tên 'Ăn Ngon' tại quận Chuo (Trung Ương), Osaka do người Nhật mở, hy vọng là ngon hết sẩy. Rồi tiệm 'Sáng Tạo' cũng của người Nhật và đầu bếp Việt Nam ra đời. Như vậy một lúc có đến bốn quán ra đời ở Osaka, sự cạnh tranh kể cũng khá gắt gao. Nhưng cũng nhờ đó, phẩm chất của các món ăn dần dần được nâng cao.

Năm 1999, tiếp tục nhiều tiệm ra đời, có tiệm Quê Hương ở Kanagawa (Thần Nại Xuyên), Hà Nội Restaurant ở Saitama (Kỳ Ngọc), Việt Nam Alice ở Tokyo, Yuki Ryori ở Osaka và Long Tử Các ở Kobe (Thần Hộ)...

Đầu năm 2000, có tiệm Sông Hương ở Ueno (Thượng Dã). Công ty Create Restaurants khai trương vào tháng 6/2000, một tiệm rộng rãi nhất với 120 chỗ ngồi và ở khu sang trọng nhất là Roppongi (Lục Bản Mộc) mang tên Vietnamese Cyclo: Tiệm này có cả chỗ ngồi ngoài trời và trưng bày nguyên một chiếc cyclo thiệt đem từ Việt Nam qua (năm 2001, công ty này mở thêm tiệm mang tên Celadon ở quận Setagaya, Tokyo với 80 ghế và Celadon ở Osaka với 100 ghế). Nhưng chắc là độc giả cũng rất ngạc nhiên về cách chế biến của người Nhật khi ăn tại ba tiệm trên thấy trong phở có bỏ rau muống và chảgiò, còn ở Vietnamese Cyclo quấn hình loa kèn với đuôi tôm ló ra!

Đặc biệt có tiệm Asia Ryori Yakigamo ở Kawaguchi (Xuyên Khẩu), tỉnh Saitama do anh Lê Văn Lộc làm chủ, tự quay vịt và heo bán cùng nhiều món ăn Á Châu khác.

Qua tháng 10/2000,tiệm Thiên Long khai trương ở Kawaguchi (Xuyên Khẩu), Saitama. Tháng 10/2000, có thêm tiệm mang cái tên lạ là Y-Sài Gòn (hỏi ra thì Y là chữ viết tắt tên ông chủ Yasaka và Saigon Tourist) ở Shibuya và Yokohama.

Tháng 12/2000, thêm tiệm Việt Nam Frog ở Kobe khá lớn với 110 chỗ ngồi, bán đồ ăn Việt và Pháp, nơi đây dự trù có cả trình diễn nhạc Việt sống mỗi tối.

Thêm hai tiệm Y-Saigon ra đời ở Shibuya (loại sang) và Yokohama (loại bình dân), hỏi ra mới biết cái tên 'bí hiểm' ấy là do sự hợp doanh của hai công ty Yasaka của Nhật Bản và Saigon Tourist của Việt Nam. Cả hai nơi đều dùng đầu bếp chuyên môn từ Việt Nam qua. Nhưng cả hai tiệm đều lần lượt đóng cửa và mở ra tiệm mới trong thương xá Parlco ở quận Shibuya.

Qua năm 2001, có tiệm mang cái tên lạ: Ăn Việt, ở Nagoya. Ăn Việt ý chỉ ăn món ăn Việt, chủ nhân người Nhật biết rằng tiếng Việt không dùng chữ ghép như vậy, nhưng đối với người Nhật thì không thành vấn đề. Đầu bếp là người Nhật, nên để nấu món ăn Việt, chủ nhân đã cử hai người lo về nấu ăn lên Mekong Center ở Tokyo học. Và còn nhiều nhiều tiệm khác nữa sẽ ra đời, nên nếu muốn ghi nhận cho thật đầy đủ sự ra đời của các tiệm ăn trên toàn quốc Nhật cũng mệt chứ không phải chơi.

Nhóm tiệm Ăn Ngon và Chảo Lửa ở Osaka với ba đầu bếp từ Việt Nam, đã mở thêm tiệm mới với cái tên thật độc đáo "Cha Chả Là Đẹp" vào tháng 7/2001. Người Nhật mà dùng được những từ như vậy thì tiếng Việt của họ cũng khá thâm hậu, hay ít ra họ cũng quan hệ với người Việt nhiều lắm mới chọn cái tên trên.

Tháng 9/2001, một công ty Nhật đã mở tiệm Phở House đầu tiên tại Akasaka, quận Minato Đông Kinh và tương lai dự định thành hệ thống toàn quốc.

Cũng trong tháng 9/2001, anh Lê Thanh Long đã khai trương một nhà hàng rất lớn lấy tên là Câu Lạc Bộ Long Hải, ngay trước ga Yamato (Đại Hòa), đường tàu Odakyu, tỉnh Kanagawạ Cửa tiệm rộng khoảng 90 'tsubo' (bình = 2 chiếu, tức hơn 250 mét vuông), có thể chứa được tới 150 người. Chia ra làm một phòng ăn, hai phòng Karaoke và một quầy rượu. Đây là tiệm Việt Nam lớn nhất từ trước đến nay, nhưng đầu năm 2004 đóng cửa.

Hệ thống tiệm ăn Papaya Leaf với 5 tiệm ở trung tâm Đông Kinh, đều bán chả giò, gỏi cuốn, bánh xèo, phở bò.

Từ năm 2000, hầu như tháng nào cũng nghe có vài tiệm ăn hay cửa hàng thủ công nghệ Việt Nam mới mở, thật là trăm hoa đua nở. Tháng 8/2003, có tiệm Saigon City ở thành phố Kawaguchi, tỉnh Saitama, tháng 11/2003 có tiệm Áo Dài ở cửa Tây ga Ikebukuro (ga này nay có tới 4 tiệm)...

Giá cả tại các tiệm ăn Việt Nam tương đối đắt, một người ăn tạm gọi là cho đã, tốn chừng 2.500 đến 4.000 Yen. Giá một số món chính (gấp 10 đến 20 lần ở Việt Nam):

Gỏi cuốn từ 550 Yen đến 1.100 Yen

Phở từ 800 Yen đến 1.280 Yen

Bánh mì từ 300 Yen đến 500 Yen

Bánh xèo từ 500 Yen đến 1.500 Yen

Tráng miệng, chè từ 300 Yen đến 600 Yen

Bia 333, Sài Gòn từ 480 Yen đến 600 Yen

Cà phê từ 350 Yen đến 550 Yen

Đa số tiệm đều đông khách, nhất là buổi tối, thực tế chỉ có một số tiệm bán buổi trưa. Tuy nhiên tình hình kinh tế cuối thập niên 90, năm 2001 còn đang khó khăn, số tiệm hơi nhiều nên cũng chia khách, cũng đã có những tiệm phải sang qua, bán lại.

Năm 2001, có công ty Viet House ở Tokyo chuyên cung cấp công thức cà-ry V. N. cho công ty Nhật sản xuất mỗi ngày khoảng 500 đến 700 phần ăn cho hàng chục siêu thị ở tỉnh Kanagawa. Bên cạnh các tiệm ăn, đây có lẽ là công ty đầu tiên thuộc loại này.

Ngày 9/5/2002, cứ điểm đầu tiên của tiệm cà phê Trung Nguyên tại Nhật đã long trọng khai trương, địa điểm ở ngay ngã 5 của khu Roppongi rất tiện lợi. Đây được coi là cơ sở trung ương để từ đó phát triển ra thành hệ thống chi nhánh toàn quốc. Buổi ra mắt thu hút khoảng hơn 100 thân hữu, có đài TV TBS số 6, ký giả Rueters, nhiếp ảnh gia Takaya Fukui... đến làm phóng sự. Theo ông Giám Đốc Mizuno, buổi ra mắt đông nghẹt được coi là rất thành công. Tất cả các dụng cụ, trang trí, bao gói đều được in nhãn Trung Nguyên. Ngoài các loại cà phê theo đúng bài bản Việt Nam là lọc tại chỗ và nếu cần cho thêm sữa đặc Ông Thọ, khách mời còn được đãi gỏi cuốn, bánh mì patê thịt, chả giò rế, xôi, nước ngọt... Số chậu và bó hoa do khách đem tơí khoảng 40. Ngày 11/5, cửa hiệu đã chính thức khai trương đối với khách thường. Đài TV TBS số 6 đã trịnh trọng giới thiệu về việc 'Hương Vị Việt Nam - Cà Phê Việt Nam Đổ Bộ Nhật Bản' lúc 8 giờ tối ngày 11/5. Người Nhật cũng không chịu thua, cho rằng có nhiều người Nhật đi Việt Nam nhưng vẫn nhớ hương vị cà phê Nhật chăng (dù là cà phê nhập cảng nhưng rang theo kiểu Nhật), nên công ty cà phê hàng đầu là UCC đã mở chi nhánh Nihon NoAji UCC (UCC) ngay tại Sài Gòn, cũng là cứ điểm để bán hay cho thuê các thiết bị... cho Việt Nam, Cam Bốt và Lào.

Sản lượng cà phê VN năm 1998 là 400.000 tấn, năm 2000 lên 700.000 tấn, đứng hàng thứ hai sau Ba Tây sản xuất 900.000 tấn. Trung Nguyên là công ty cà phê Việt Nam mới thành lập năm 1996, trong có 6 năm, đã trở thành hệ thống tiệm cà phê lớn nhất Việt Nam với khoảng 400 tiệm trên toàn quốc. Ông Mizuno, Giám Đốc công ty Daitsu vừa thành lập năm 2001 đã ký khế ước với công ty Trung Nguyên để thiết lập hệ thống tiệm cà phê ở Nhật Bản.

Tới giữa năm 2000, số tiệm có món ăn Việt Nam (không kể các siêu thị) mà chúng tôi ghi nhận được là 87, qua giữa năm 2003 đã lên tới 300 tiệm, như vậy là đã gia tăng khoảng hơn gấp ba trong có ba năm.

(Trích từ sách "Nhật Bản Dưới Mắt Người Việt" )

( còn tiếp)

* Đỗ Thông Minh.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=68510&z=54

Miễn lệ phí cấp hộ tịch, hộ khẩu, CMND cho người dân

Miễn lệ phí cấp hộ tịch, hộ khẩu, CMND cho người dân

4 loại phí, lệ phí được miễn gồm: Phí an ninh, trật tự; Phí phòng, chống thiên tai; Lệ phí cấp hộ tịch, hộ khẩu, CMND; Lệ phí địa chính khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp.

Đó là một nội dung ban hành kèm Chỉ thị 24/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ vừa được ký ban hành.

Theo chỉ thị 24, Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo bãi bỏ ngay những khoản thu phí, lệ phí không có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định số 24/NĐ-CP (ngày 6-3-2006).

Đến 30-11-2007 nếu tỉnh, thành phố nào còn các khoản phí, lệ phí trái với quy định của pháp luật, Chủ tịch tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng.

Thủ tướng cũng yêu cầu, đối với các khoản phí, lệ phí có tên trong Danh mục chi tiết phí và lệ phí, nhưng chưa có văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn thì chưa được phép thu, và không được vận dụng mức thu của các khoản phí, lệ phí khác có tính chất tương tự để thu. Trường hợp địa phương đã tổ chức thu thì phải dừng ngay.

Thủ tướng cũng chỉ thị, trong quý IV năm 2007, Bộ GD-ĐT phải hoàn thành việc xây dựng Đề án về học phí, Bộ Y tế hoàn thành việc xây dựng Đề án về viện phí trình Chính phủ.

Theo báo cáo giám sát mới nhất về phí, lệ phí của Ủy ban Tài chính - Ngân sách (Quốc hội), tính đến 15-8-2007, còn 31 khoản phí, lệ phí trong tổng số 301 khoản phí, lệ phí có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm Nghị định của Chính phủ vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, chưa được phép thu.

Bên cạnh đó, trong số 340 loại phí, lệ phí mà Chính phủ chỉ đạo các địa phương bãi bỏ, đến nay vẫn còn một số địa phương chưa có báo cáo về việc đã bãi bỏ theo yêu cầu như: Tiền Giang (9 loại phí, lệ phí ); Vĩnh phúc (6 loại phí); Hà Nội (2 loại lệ phí); Cà Mau (16 loại phí, lệ phí).
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=227925&ChannelID=3

NHỮNG NƯỚC GIÀU NHỨT THẾ GIỚI


U S A. NHỮNG NƯỚC GIÀU NHỨT THẾ GIỚI

1/ Population
- 2010 estimate 309,114,000[2] (3rd[d])
- 2000 census 281,421,906[3]
- Density 32/km2 (178th)
83/sq mi

GDP (PPP) 2008 estimate
- Total $14.441 trillion[4] (1st)
- Per capita $47,440[4] (6th)

GDP (nominal) 2008 estimate
- Total $14.441 trillion[4] (1st)
- Per capita $47,440[4] (17th) per capita = theo đầu người= $47,440 = $50.000.


2/ JAPAN.
Population
- 2010 estimate 127,380,000[5] (10th)
- 2004 census 127,333,002
- Density 337.1/km2 (36th)
873.1/sq mi

GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $4.159 trillion[6]
- Per capita $32,608[6]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $5.068 trillion[6]
- Per capita $39,731[6]


3/ GERMANY

Population
- Jan. 1, 2010 estimate ▼ 81,757,600[2] (14th)
- Density 229/km2 (55th)
593/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $2.806 trillion[3]
- Per capita $34,212[3]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $3.352 trillion[3]
- Per capita $40,874[3]


4/ CHINA
Population
- 2010 estimate 1,338,612,968[5] (1st)
- 2000 census 1,242,612,226
- Density 139.6/km2 (53rd)
363.3/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $8.765 trillion[6]
- Per capita $6,567[6]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $4.909 trillion[6]
- Per capita $3,677[6]


5/ FRANCE
Area
- Total[2] 674,843 km2 (43rd)
260,558 sq mi
- Metropolitan France
- IGN[3] 551,695 km2 (47th)
213,010 sq mi
- Cadastre[4] 543,965 km2 (47th)
210,026 sq mi
Population
(1 January 2010 estimate)
- Total[2] 65,447,374[6] (20th)
- Metropolitan France 62,793,432[5] (22nd)
- Density[7] 115/km2 (89th)
299/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $2.108 trillion[8]
- Per capita $33,678[8]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $2.676 trillion[8]
- Per capita $42,747[8]


6/ UNITED KINGDOM
Area
- Total 243,610 km2 (79th)
94,060 sq mi
- Water (%) 1.34
Population
- 2010 estimate 62,041,708[2] (22nd)
- 2001 census 58,789,194[3]
- Density 254.7/km2 (51st)
659.6/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $2.165 trillion[4] (6th)
- Per capita $35,400[5] (24th)
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $2.198 trillion[6] (6th)
- Per capita $36,000[7] (24th)


7/ ITALY
Area
- Total 301,338 km2 (71st)
116,346 sq mi
- Water (%) 2.4
Population
- 2009 estimate 60,231,214[1] (23rd)
- 2001 census 56,995,744
- Density 199.8/km2 (54th)
517.4/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $1.740 trillion[2]
- Per capita $29,109[2]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $2.118 trillion[2]
- Per capita $35,435[2]


8/ RUSSIA

Area
- Total 17,075,400 km2 (1st)
6,592,800 sq mi
- Water (%) 13[1] (including swamps)
Population
- 2010 estimate 141,927,297[2] (9th)
- 2002 census 145,166,731[3]
- Density 8.3/km2 (217th)
21.5/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $2.126 trillion[4] (8th)
- Per capita $15,039[4] (51st)
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $1.255 trillion[4] (11th)
- Per capita $8,874[4] (54th)


9/ BELGIUM
Area
- Total 30,528 km2 (139th)
11,787 sq mi
- Water (%) 6.4
Population
- 1.1.2010 estimate 10,827,519[2] (76th)
- 2001 census 10,296,350
- Density 354.7/km2 (33rd)
918.6/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $382.749 billion[3]
- Per capita $35,421[3]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $470.400 billion[3]
- Per capita $43,533[3]


10/ NAUY
Area
- Total 385,252 km2 (61st2)
148,746 sq mi
- Water (%) 7.0
Population
- 2010 estimate 4,858,200[2] (115th)
- 2001 census 4,503,436
- Density 12.5/km2 (211th)
31/sq mi
GDP (PPP) 2008 estimate
- Total $257.243 billion[3] (41st)
- Per capita $53,737[3] (3rd)
GDP (nominal) 2008 estimate
- Total $451.830 billion[3] (24th)
- Per capita $94,386[3] (2nd)
Diện tích
- Tổng số 385,199 km² (hạng 61)
- Nước (%) 6%
Dân số
- Ước lượng 2009 4,850,440 (vào thời điểm 21 tháng 12, 2009) (hạng 114)
- Điều tra 2001 4.520.947 (hạng 114)
- Mật độ 14 /km² (hạng 166)
GDP (PPP) Ước tính 2003
- Tổng số 169 tỷ Mỹ kim (hạng 42)
- Theo đầu người 40.784 Mỹ kim (hạng 2)



11/ CANADA
Area
- Total 9,984,670 km2 (2nd)
3,854,085 sq mi
- Water (%) 8.92 (891,163 km2/344,080 mi2)
Population
- 2010 estimate 34,077,000 [3] (36th)
- 2006 census 31,241,030[4]
- Density 3.41/km2 (228th)
8.3/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $1.281 trillion[5]
- Per capita $38,025[5]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $1.336 trillion[5]
- Per capita $39,668[5]


12/ AUSTRALIA.
Area
- Total 7,617,930 km2 (6th)
2,941,299 sq mi
Population
- 2010 estimate 22,300,000 -->[5] (51st)
- 2006 census 19,855,288[6]
- Density 2.833/km2 (232nd)
7.3/sq mi
GDP (PPP) 2009 estimate
- Total $851.170 billion[7]
- Per capita $38,910[7]
GDP (nominal) 2009 estimate
- Total $997.201 billion[7]
- Per capita $45,586[7]